Quản lý và Quản trị

Khi sử dụng khái niệm quản lý, đó là hoạt động của một chủ thể tác động đến các đối tượng quản lý, bằng các công cụ, phương pháp quản lý nhằm đạt được mục đích đã đề ra. Khái niệm quản trị, với hàm nghĩa rộng hơn, không chỉ đề cập đến các hoạt động của một chủ thể, mà còn mở rộng đến các chủ thể khác.
Do đó, sự khác biệt căn bản nhất so với các hệ thống quản lý là sẽ không tồn tại một chủ thể có thể kiểm soát hoàn toàn quá trình ra quyết định tập thể trong các mối quan hệ quản trị đa chủ thể.
Hoạt động Quản lý nhà nước, như chúng ta biết, đó là nhiệm vụ quản lý của chủ thể là Nhà nước đối với mọi tổ chức và công dân trong các hoạt động kinh tế - xã hội. Quản trị không chỉ để cập đến các hoạt động của chủ thể nhà nước, mà còn mở rộng ra đến các chủ thể ngoài nhà nước. Mạng lưới các chủ thể đa dạng này dần giảm bớt ý niệm về ranh giới giữa các đơn vị trong chính quyền, giữa khu vực công - tư, hay nội địa - quốc tế.
Đến nay, giữa các ngành khoa học vẫn tồn tại những cách hiểu khác nhau về khái niệm “quản trị”. Xét riêng việc giải quyết các vấn đề chung của cộng đồng, “quản trị” hay “quản trị công” được hiểu một cách khái quát là việc thiết lập, vận dụng, và thực thi “luật chơi”.
Cụ thể hơn, đó là một tập hợp các nguyên tắc ra quyết định tập thể trong những bối cảnh nhiều chủ thể, và giữa họ không tồn tại một hệ thống kiểm soát chính thức nhằm chi phối các điều khoản về mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia hệ thống quản trị.
Khác biệt giữa “quản lý nhà nước” và “quản trị quốc gia”
Đâu là những đặc điểm chính của nền quản trị quốc gia?
Thứ nhất là đặc điểm đa chủ thể. Hệ thống quản trị sẽ không chỉ bao gồm chính quyền, luật pháp, nguyên tắc và quy định hành chính và các cơ quan nhà nước, mà còn bao gồm các chủ thể tư nhân, các tổ chức phi lợi nhuận, cũng như vai trò ngày càng tích cực và chủ động của mỗi công dân.
Cũng bởi thế, lợi ích công không còn là cơ sở duy nhất cho các quyết định quản trị. Trong khung khổ quan hệ đa chủ thể, các mong đợi lợi ích của các chủ thể khác nhau đều phải được tôn trọng. Do đó, các chính sách hay quyết định quản lý có xu hướng bị chi phối nhiều hơn bởi các lợi ích đa dạng, chứ không phải chỉ lợi ích công.
Thứ hai, giảm bớt khoảng cách và thu hẹp ranh giới công - tư. Hệ thống quản trị tích hợp các hệ thống hành chính với các cơ chế thị trường và phi lợi nhuận, qua đó thu hẹp và làm mờ đi ranh giới giữa nhà nước và xã hội.
Thứ ba, quan hệ hợp tác giữa các đối tác sẽ dần thay thế quan hệ áp đặt theo trật tự thứ bậc như trong mô hình chính quyền truyền thống. Do sự tham gia của các chủ thể đa dạng vào các quan hệ quản trị nên hình thức của các quan hệ đó sẽ chuyển dần sang dạng thức quan hệ theo chiều ngang, mang tính chất đối tác, hợp tác, và bình đẳng hơn.
Thứ tư, hoạt động quản trị có tính liên thông - các khuôn mẫu, mô thức quản trị bao gồm các thể chế và con người ở tất cả các cấp độ chính quyền cũng như các lĩnh vực chính sách khác nhau, và không bị giới hạn bởi biên giới lãnh thổ địa phương.
Chúng ta đang sống trong một thế giới biến đổi nhanh và phụ thuộc lẫn nhau. Bởi thế, từ cuối những năm 1990, tư duy quản trị là một xu thế ngày càng phổ biến trên thế giới. Khái niệm “quản trị quốc gia” đã xuất hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, điều đó thể hiện quan điểm của Đảng về đổi mới hệ thống chính trị - hành chính theo hướng tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Thực tế cũng cho thấy những giới hạn về khả năng và nguồn lực của nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề của cộng đồng. Bởi thế, chúng ta cũng đang chứng kiến sự tham gia ngày càng tích cực của doanh nghiệp, tổ chức xã hội, và cá nhân công dân, sát cánh cùng chính quyền để giải quyết các vấn đề mang tính tập thể.
Các hệ thống quản trị đòi hỏi chính quyền phải dần thích ứng được với vai trò điều phối sự khác biệt về mong đợi và lợi ích của các chủ thể quản trị. Cũng có nghĩa, chính quyền không thể dễ dàng áp đặt ý chí của mình cho các bên liên quan như trong mô hình quản lý nhà nước truyền thống.
TS.Vũ Trường Sơn - Viện Đào tạo sau đại học